Liên văn bản (intertextuality) là một phát hiện quan trọng của lý luận – phê bình văn học thế giới cuối thế kỷ XX. Manh nha từ tư tưởng triết học của Mikhail Mikhailovich Bakhtin, được ra đời trong bối cảnh các chủ thuyết cấu trúc luận đang có nguy cơ đổ vỡ, liên văn bản làm biến đổi mạnh mẽ tư duy văn học và ảnh hướng nhất định đến quá trình tiếp nhận văn học.
Quan sát tiểu thuyết Việt Nam đương đại trên hành trình đổi mới tư duy nghệ thuật, chúng tôi nhận thấy, người viết đã xử lí liên văn bản không chỉ ở góc độ thủ pháp, kĩ thuật mà còn hiện hữu ở cấp độ nội dung tư tưởng. Người đọc gặp gỡ các quan điẻm triết học, tôn giáo, xã hội và sự đối thoại các tư tưởng này trong tiểu thuyết. Nhà văn nỗ lực tạo ra tiếng nói, cách thức riêng để truyền tải tới bạn đọc một hiện thực đời sống đa chiều.
Theo M. Bakhtin, từ phát ngôn đơn giản đến những tác phẩm phức tạp nhất của khoa học (hoặc diễn ngôn văn học) luôn hiện diện trong sự tương tác, tương liên, trong môi trường đối thoại. Chất liệu ngôn ngữ khi đó được coi là một sinh thể toàn vẹn, sống động, muôn sắc thái. Tiểu thuyết là một ví dụ về sự pha trộn thể loại, về sự tự do không giới hạn và luôn thể hiện tính lịch sử của sự viết. Với ông, đối thoại không chỉ là phương thức hiệu quả tạo ra mối quan hệ giữa con người với tha nhân, với xã hội và nền văn hóa mà còn là bản chất của tồn tại, của ngôn ngữ và là lý do tồn tại của tiểu thuyết. Với quan niệm triết học đó, M. Bakhtin cho rằng ngôn ngữ luôn tồn tại trong ý thức đa ngữ - đó là tình trạng một ngôn ngữ thoát ra khỏi tình trạng “chỉ biết có mình và được soi chiếu bằng một ngôn ngữ khác, cùng hiện diện bên trong nó”. Chủ thể ngôn ngữ luôn nằm trong không gian biến động, cuộc đụng độ của ý thức hệ.
Cội nguồn của tính đối thoại trong tiểu thuyết là đối thoại về tư tưởng, quan niệm. Nói như M. Bakhtin, “Tiểu thuyết – đó là những tiếng nói xã hội khác nhau, đôi khi là những ngôn ngữ xã hội khác nhau và những tiếng nói cá nhân khác nhau được tổ chức lại một cách nghệ thuật”[1]. Cùng với việc chú ý đến tính liên văn bản, tính đối thoại của tiểu thuyết không chỉ diễn ra ở cấp độ lời nói, phát ngôn của nhân vật mang tư tưởng, tính cách; ở cấp độ các dòng tư tưởng, ý thức hệ mang tính tranh biện của một giai tầng, một thời đại; mà còn bộc lộ ở sự xâm lấn của các lớp diễn ngôn, của các kiểu dạng liên văn bản, xuyên văn bản, khiến biên độ thể loại của tiểu thuyết không ngừng được mở rộng và giãn nở. Từ chiều kích liên văn bản, mọi cái nhìn/cách đọc đều không ngừng liên hệ, đối chiếu, tương tác với các văn bản xuất hiện trước hay sau nó. Tính đối thoại trong tiểu thuyết nảy sinh từ những tương tác đa chiều này. Nói cách khác, trong quan niệm của Bakhtin, liên văn bản chính là biểu hiện cao nhất của tính đối thoại trong tiểu thuyết.
2. Tinh thần đối thoại hay sự chồng xếp các mã diễn ngôn khác nhau trong văn bản tiểu thuyết
2.1 Mã lịch sử trong văn bản tiểu thuyết
Viết về quá khứ, công việc của nhà viết tiểu thuyết là làm sống lại lịch sử bằng việc phục hiện lại các sự kiện, biến cố, khám phá những bí ẩn, khuất lấp, lí giải lịch sử từ số phận cá nhân và tìm ra sợi dây liên hệ giữa thời khắc đã qua và đời sống hiện tại. Từ đặc trưng thể loại cùng với thực tiễn sáng tác của tiểu thuyết đương đại Việt Nam, chúng ta nhận ra rằng, mỗi tác phẩm viết về đề tài lịch sử luôn chứa đựng trong nó những mã văn hóa. Tác giả là người kiến tạo văn bản – tiểu thuyết lịch sử bằng cách khai thác những mảnh vỡ của những “tiền văn bản”. Chúng có thể là những trước tác lịch sử, các bộ thông sử theo lối biên niên (chính thống và không chính thống), các giá trị văn hóa tâm linh, cũng có thể là những câu chuyện được lưu trữ trong kí ức dân gian (dã sử, giai thoại, truyền thuyết, huyền thoại...). Nhà văn trước khi bắt tay vào viết đã phải đầu tư tìm tòi, nghiên cứu kĩ lưỡng tư liệu về thời đại, sự kiện, nhân vật lịch sử mình quan tâm. Tác giả tìm thấy ở đó điểm níu giữ, những chất liệu chân thực, từ đó dùng trí tưởng tượng, khả năng sáng tạo và hư cấu của mình để phục dựng quá khứ, phục hiện những nhân vật. Soi rọi từ góc nhìn liên văn bản, người đọc sẽ làm sống dậy những kí ức về văn hóa, xã hội, từ đó kiến tạo hiện thực theo cách của riêng mình.
Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác dồn nén hàng trăm sự kiện lớn nhỏ, nhân vật lịch sử, địa danh theo vùng địa lí... từ các nguồn chính sử và dã sử là Đại Việt kí toàn thư, Lịch sử nội chiến Việt Nam 1771 – 1802, Việt Nam văn học sử yếu, Phủ yên tạp lục,... và thư từ của các giáo sĩ phương Tây. Nguyễn Mộng Giác đã sử dụng ba cách chuyển hóa lịch sử là trích dẫn trực tiếp, nguyên vẹn hoặc dựa theo y bản một số tài liệu để dẫn sử, biên niên ngắn gọn theo lối ghi chép trong “Nhật kí chiến dịch” của nhân vật Lãng hoặc qua lời trần thuật trực tiếp của tác giả và lồng ghép những sự kiện lịch sử nhỏ lẻ hoặc kiến thức lịch sử quan trọng trong các cuộc hội họp, nói chuyện, bàn tán của các nhân vật. Bằng ba cách khai thác sử liệu, Nguyễn Mộng Giác tái thiết hiện thực lịch sử nhằm hai mục đích là luận giải cách ứng xử của mỗi hạng người từ vua chúa, anh hùng, tướng sĩ cho đến người tri thức, bọn con buôn, nông dân... trước những biến thiên của xã hội.
Từ sự thôi thúc về những “điều kì diệu lẫn đau khổ xưa của cha ông”, mong muốn giúp hậu sinh tri nhận được cội nguồn dân tộc, Hoàng Quốc Hải miệt mài tìm tòi, trăn trở và kết quả là sự ra đời hai bộ trường thiên tiểu thuyết về nhà Trần và nhà Lí. Trong Bão táp triều Trần, tác giả không chọn viết theo lối thông sử biên niên của các triều đại, mà lựa chọn “lát cắt ngang” trong những thời điểm lịch sử gay cấn nhất làm nền phát triển cốt truyện (cuộc chuyển giao thời đại Lí – Trần trong Bão táp cung đình, ba lần đánh đuổi quân Nguyên – Mông trong Đuổi quân Mông Thát, Thăng Long nổi giận, Huyết chiến Bạch Đằng, xác lập tư tưởng triết học và đường lối bang giao trong Huyền Trân công chúa, 60 năm suy thái và sụp đổ trong Vương triều sụp đổ). Từ những cuộc thử lửa cam go đó, nhà văn đã truy tìm và giải mã sức mạnh, bản lĩnh của dân tộc, khơi dậy niềm tự hào, tinh thần tự tôn trong mỗi người con đất Việt. Cũng với cảm thức ấy, Tám triều vua Lí (gồm: Thiền sư dựng nước, Con ngựa nhà Phật, Bình Bắc dẹp Nam, Con đường định mệnh) đã tái hiện cả một lịch sử kéo dài 216 năm, kể từ khi Lí Công Uẩn lên ngôi hoàng đế năm Kỉ Dậu (1009) và kết thúc vào năm Ất Dậu (1225). Trước sự thật lịch sử nữ vương Lí Chiêu Hoàng bị ép nhường ngôi cho Trần Cảnh, Hoàng Quốc Hải đã mạnh dạn viết về những vấn đề chìm lấp trong bóng tối. Chính sự dung hòa hợp lí giữa chính sử - dã sử, giai thoại - huyền thoại - truyền thuyết dân gian cùng với trí tưởng tượng phong phú, tác giả không những đã tái hiện một cách chân thực, sâu sắc không khí xã hội, văn hóa mà còn tạo nên những hình tượng nhân vật giàu sức sống, đậm cá tính.
Nguyễn Xuân Khánh tâm niệm tiểu thuyết lịch sử phải khúc xạ không khí thời đại. Bối cảnh của Hồ Quý Ly được xây dựng dựa trên những sự kiện đầy biến động của giai đoạn cuối Trần đầu Hồ (thế kỉ XIV – XV), cốt truyện xoay quay số phận của một trong những nhân vật phức tạp, đa diện nhất trong lịch sử - Hồ Quý Ly. Thông qua việc lựa chọn lịch sử đó, nhà văn muốn khắc sâu vào sự khủng hoảng, bế tắc của nhà Trần, đưa ra một tình thế phải “thay đổi” để chấn hưng đất nước, đồng thời đối thoại với lịch sử và con người hiện tại về ý nghĩa “thời thế” của nhân vật Hồ Quý Ly trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ. Đại Việt sử kí toàn thư ghi chép khá tỉ mỉ và đánh giá như sau: “Quý Ly là đại tướng, sự an nguy của nước quan hệ ở mình, thế mà đến nỗi bỏ luật vỡ quân, tội ấy to lắm”. Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược thì bàn: xem công việc của Hồ Quý Ly làm thì không phải một người tầm thường… nhưng vì cái lòng tham xiu khiến hễ đã có thế lực là sinh ra bụng muốn tranh quyền cướp nước. Bởi thế, Hồ Quý Ly mới làm sự thoán đoạt và nhà Minh mới có cái cớ sang đánh lấy nước An Nam”.
Đọc tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh, ta không bắt gặp những con số ghi lại ngày tháng của sự kiện giống như ta vẫn thường đọc được trong Tam quốc diễn nghĩa hoặc Hoàng Lê nhất thống chí. Ở đây, lịch sử chỉ là sự chuyển dịch của những tên gọi được lưu giữ trong kí ức cộng đồng. Đọc Hồ Quý Ly, lịch sử là sự thay thế lẫn nhau giữa hai triều đại, hai dòng họ nhà Trần và nhà Hồ. Khi truyện kể chỉ ra những tên gọi, cả người kể lẫn người nghe đều có thể hình dung lịch sử bằng tri thức chủ quan. Hồ Quý Ly lên ngôi, cảnh náo nhiệt của “Hội thề Đốn Sơn” đã lắng xuống, truyện kể vẫn tiếp tục. Lối tư duy công thức bị khai trừ, thay vào đó, những cuộc đời song hành tồn tại, không có cái gì tuyệt đối, mọi sự vật đều nhìn nhận trong tính hai mặt… Hồ Quý Ly là minh chứng thuyết phục cho sự hồi sinh của truyền thống văn hóa dân tộc, giã từ lối viết mô phỏng, sao chép hiện thực cứng nhắc, mở ra những nghiệm suy mới về bản chất cuộc đời, con người. Những năng lượng tinh thần ngàn năm của nhân loại và dân tộc ẩn hiện trong các biểu tượng tạo ra những ẩn dụ cùng sự kiến giải mới về văn chương và cuộc đời. Người đọc đương đại sẽ suy ngẫm về các vấn đề của lịch sử nhưng vẫn còn nguyên giá trị hiện đại: cách tân và bảo thủ, sự thành công – thất bại trong thời khắc quan trọng của lịch sử. Đến thế kỷ XXI, “Chưa bao giờ “sự khủng hoảng của chủ nghĩa lịch sử lại biểu hiện rõ như thời kỳ này. Người ta không còn hài lòng, thỏa mãn với lịch sử qua những diễn giải, ghi chép của các nhà “sử luận”, thay vào đó, khao khát kiến tạo những “sự tưởng tượng về lịch sử” trên cái nền “sự thật lịch sử” vốn đầy rẫy khoảng trống mơ hồ”[2].
Bên cạnh việc khai thác những tư liệu chính thống được ghi trong chính sử, các nhà văn đã chú ý hướng đến cái nhìn lịch sử vào những câu chuyện dã sử, truyền thuyết, huyền thoại, giai thoại… vốn được lưu truyền trong dân gian. Ở hầu hết các sáng tác về đề tài lịch sử của các nhà văn đương đại đều có sự pha trộn, đan xen giữa yếu tố lịch sử và dã sử, chính thống và không chính thống, hiện thực và huyền thoại. Nhờ vậy, quan niệm về thể loại được mở rộng biên độ. Lúc này, tiểu thuyết lịch sử bao hàm cả dã sử, huyền sử, thậm chí là phản lịch sử, là sự dung hợp nhiều thể loại.
Cùng với những tác phẩm tái hiện theo chiều dài lịch sử của triều đại, có những tác phẩm khác lại lựa chọn khoảnh khắc đặc biệt trong lịch sử. Hội thề của Nguyễn Quang Thân viết về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, với không gian hẹp là thành Đông Quan và vùng Kinh Bắc, trong một thời gian ngắn khoảng dăm bảy ngày trước sau trận Xương Giang lịch sử. Trong một “lát cắt lịch sử” đó, tác giả tập trung viết về cuộc đấu tranh của nội bộ tướng lĩnh nghĩa quân trước “kế lạ xưa nay chưa từng có” của Lê Lợi và Nguyễn Trãi, cuộc tranh giành ngôi vua và quyền bính đã âm ỉ ngay cả trong những ngày khói lửa, thân phận chiếc bách giữa dòng của người tri thức giữa những mưu đồ chính trị khắc nghiệt. Quan niệm về lịch sử đã thay đổi khi nó bị chi phối bởi cảm quan người viết. Nói như Dorothy Brewster và John Burrell: “Tiểu thuyết lịch sử có thể thoát thai từ ước ao của một tác giả muốn được đào thoát khỏi hiện tại, đồng thời thỏa mãn ước ao tương tự của độc giả… Nó có thể soi sáng những thời kỳ quá khứ con người đã trải qua, với những mục đích rõ ràng là gạn lọc những tình trạng tiến thoái lưỡng nan của hiện tại”[3].
Nói cho cùng, “Ở bên ngoài tiểu thuyết, người ta sống trong thế giới của những điều khẳng định, trong lĩnh vực tiểu thuyết người ta sống với trò chơi và giả thiết”[4]. Độc giả không thể tìm thấy trong tiểu thuyết những phán xét duy nhất đúng về các chân lí mà đó chỉ là những giả thiết về đời sống. Tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam đương đại thông qua cách đọc văn bản từ các mã lịch sử, người viết có kì vọng khơi mở các chiều kích mang ý nghĩa khác nhau của tiểu thuyết, tìm hiểu sự chạm va, tương đồng lịch sử đồng thời khai thác những văn bản được phái sinh từ nguyên tác.
Xét ở góc độ nào đó, tôn giáo chính là một trong những nguồn gốc của văn hóa, chúng đều là những hình thái ý thức xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng. Từ góc độ bề mặt, tôn giáo và văn học nghệ thuật đã, đang và sẽ tồn tại song song, đan cài, ảnh hưởng lẫn nhau. Ở bề sâu, tôn giáo là cội nguồn nâng đỡ sức sáng tạo của văn học nghệ thuật. Do đó, tôn giáo đi vào đời sống tiểu thuyết đương đại một cách tự nhiên và mở ra những chiều kích mới của những cuộc đối thoại.
Hồ Anh Thái có một tình yêu lớn dành cho Ấn Độ nên đã dành nhiều thời gian đi tới nhiều vùng quê, những đền chùa danh tiếng, rong ruổi khắp miền Bắc và Trung Ấn thuộc Vương quốc Phật thời cổ đại… Đức Phật, nàng Savitri và tôi là những cuốn tiểu thuyết du kí về cuộc hành hương của những nhân vật xưng tôi, tiểu thuyết biên niên về Đức Phật, gợi nhắc độc giả đến cuốn sách Phật học Đường xưa mây trắng của thầy Thích Nhất Hạnh. Những trích dẫn trong tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi là nghi thức quy y tam bảo của nhà Phật, gợi sự liên tưởng đến cuộc đời của Đức Phật mà còn mở ra các giáo lí, kinh kệ và tạo không khí trang nghiêm của việc quy y. Nhà văn làm sống lại không khí đạo Phật trên từng trang tiểu thuyết. Việc sử dụng các văn bản cổ, các câu kinh giữ một vị trí quan trọng mở rộng ý nghĩa tác phẩm. Văn bản thứ nhất tác giả trích văn bia viết trên cột đá năm 245 trước Công nguyên đơn thuần kể lại chuyến thăm vương quốc Asoka tới nơi ra đời của Đức Phật, tuy nhiên nó lại là dấu mốc trong hành trình của tác giải tìm về cội nguồn đạo Phật, hành trình của nàng Sakitri tìm về với tiền kiếp và Đức Phật đi tìm chân lí. Phục sinh không khí cổ đại cách đây 2000 năm, khơi gợi những văn bản Phật giáo và lịch sử, tác giả đã hồi tưởng về quê hương Đức Phật, nơi hoàng tử Siddattha ra đời. Bên cạnh đó, tác phẩm còn gợi ra những văn bản Phật tích, những giáo lí nhà Phật về cuộc đời của vị hoàng đế vĩ đại nhất trong lịch sử Ấn Độ. Hồ Anh Thái đã tạo nên chuỗi liên kết các văn bản và có thể mở rộng tầng ý nghĩa văn bản. Người đọc có thể khơi gợi được nhiều văn bản khác tùy vào tri thức độc giả.
Trên hành trình sáng tạo, Hồ Anh Thái đã chịu ảnh hưởng tư tưởng Thiên Chúa giáo và Phật giáo. Nhà văn chia sẻ Cõi người rung chuông tận thế chịu ảnh hưởng từ Kinh Thánh Tân ước, đề cao tinh thần khoan hòa của Phật giáo. Ý tưởng trên được kí thác trong nhân vật Mai Trừng, người đã đạt tới “giác ngộ” (cô đã lấy thân mình che đỡ một nhát dao tàn độc cho nhân vật “tôi” – người kể chuyện). Mã tôn giáo là giá đỡ, là cái cớ giúp nhà tiểu thuyết diễn tả những suy tư về cuộc sống phồn tạp. Việc trích dẫn Kinh thánh, kinh Phật, các văn bản tôn giáo với “diễn ngôn quyền lực” của mình đã đưa văn bản văn chương đương đại vào mạng lưới chằng chịt những mối quan hệ liên văn bản.
2.3 Mã văn hóa trong văn bản tiểu thuyết
Nghệ thuật nói chung, văn chương nói riêng muôn đời luôn hàm ẩn, dung chứa và khu biệt bởi tính biểu tượng. Trong văn chương, ngôn ngữ là dấu hiệu đầu tiên của tính cá nhân và tinh thần của mỗi dân tộc. Theo Levy – Bruhl, S. Freud, F. Sausure, biểu tượng (symbol) là một dấu hiệu không đầy đủ và hoàn toàn chính xác, và cũng theo Augustine, biểu tượng cũng chỉ là một cách khác để nói về những gì mà một dấu hiệu nói. Dẫu có nhiều quan niệm khác nhau, biểu tượng trong văn chương vẫn được biểu đạt qua mã ngôn ngữ và chuyển hóa thành biểu tượng nghệ thuật, vừa lưu trữ các giá trị văn hóa, tồn tại như các biểu tượng thẩm mỹ, cổ mẫu – vừa chuyển tải, sáng tạo văn hóa. Biểu tượng trong sự đan kết các tầng ý nghĩa, lấy hình ảnh làm sức mạnh, luôn lấp lánh nhiều giá trị vẫy gọi. Tìm hiểu các biểu tượng gốc (archetype), mang tâm tức mẫu, tức giải mã những chất liệu nghệ thuật kiến tạo tác phẩm từ những níu kéo, giăng mắc trong huyền thoại dân tộc. Đồng thời, lý giải bản chất giá trị nghệ thuật từ chính bản thân văn bản, đồng thời từ bên ngoài văn bản cùng với những năng lượng đặc biệt nương mình trong vô thức người nghệ sĩ.
Các biểu tượng gốc được hiểu là những nguyên tố không thể cắt nghĩa được bằng một sự việc xảy ra trong đời sống. Nó hình thành từ nguyên thủy, trở thành một phần trong gia tài tinh thần của nhân loại. Sự hình thành cổ mẫu thường bắt nguồn từ những kinh nghiệm lặp đi lặp lại của nhân loại, có tính chất mơ hồ, là một kết tinh quan trọng của ký ức con người về cội nguồn văn hóa – lịch sử. Biểu tượng gốc có tính phổ quát, là những mô – típ và hình ảnh được tìm thấy trong nhiều hệ huyền thoại khác nhau Trong quá trình sáng tác, cổ mẫu với tư cách những ký ức, dấu chỉ văn hóa xa xưa của nhân loại thường xuyên hiện hữu ở tầng sâu vô thức nghệ sĩ và vận dụng trong sự đồng hóa những kinh nghiệm bên ngoài kết hợp với những sự kiện tâm linh, chi phối nhà văn trong quá trình sáng tạo.
Mẫu thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh ngập tràn những biểu tượng: Trăng lặp lại 62 lần với các trạng thái khác nhau: Trăng lưỡi liềm, trăng cuối tuần, đêm trăng sáng, trăng giàn giụa… Trong ý nghĩa tái sinh, trăng liên hệ với người nữ là một sự soi chiếu cho nhau làm lộ ra vẻ đẹp. Tiểu thuyết là nơi thể hiện vẻ đẹp thăm u, bí mật của rừng, cây thiêng, núi Mẫu. Thế an tọa vững chãi chốn tiềm thức dân Việt, cùng với Mẫu Thoải, Mẫu Địa, Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn (Mẹ Rừng) là những Đấng Vĩ Đại của bảo tồn và sinh dưỡng. Rừng không chỉ là không gian, thời gian. Rừng là sự vĩnh hằng, là cõi vô cùng, từ đó con người đi ra và nơi hằng viễn, con người lại biến mất vào đó, biệt vô tăm tích. Rừng là bản nguyên, là cội nguồn ở đầu bên này, nhưng cũng là cõi mịt mù thăm thẳm ở đầu bên kia… Rừng xuất hiện dày đặc trong Mẫu thượng ngàn: 229 lần (với các biến thể: Núi: 173 lần, đồi: 39 lần, cây cối: 225 lần...). Nó tham dự một cách máu thịt vào cuộc sống của con người Cổ Đình, liên hệ mật thiết với tính nữ trong vẻ chở che linh thiêng và huyền bí. Đó là “hang đá” (trong rừng) che chở và nuôi dưỡng mối diễm tình của Phác (Tịnh Huyền) và Ba Váy, là nơi Cò Huy nhận ra người cha đích thực của mình trong cơn điên loạn và khủng hoảng, Cò Huy đã chạy vào rừng để được an ủi và lắng lọc. Rừng chở che cho Nhụ và Điều khi những vết thương lòng và niềm tin vào một mái ấm trong cuộc tái sinh ở mùa thiêng bị cưỡng đoạt... Cô rừng và tâm thức Mẫu (Nhụ đã có con) hòa làm một trong hình hài Nhụ khi trở về làng để nuôi con và trở thành hầu đồng cho đạo Mẫu.
Nước trong Mẫu thượng ngàn lại là sự nuôi dưỡng tinh thần con người Cổ Đình. Bằng xự xuất hiện một cách dày đặc: Nước (273 lần), chủ yếu là nước mưa (nước thượng đẳng) và sông (107 lần), Nguyễn Xuân Khánh gợi mở cho người đọc nhiều ý nghĩa nhân bản. Nó không chỉ thể hiện tính mềm mại, uyển chuyển của các nhân vật nữ, của đạo Mẫu, của triết lý văn hóa Việt Nam mà còn thể hiện sự tham dự vào nguồn nuôi dưỡng những thế hệ con người ở Cổ Đình. Đó là nước mưa thấm hương thơm hoa nhài, hoa cau hòa trong chén trà cụ Đồ Tiết; là nước thấm ướt làm tươi mới những khát vọng nơi Điều, Nhụ, Trịnh Huyền... Đó còn là dòng sông Son, sông Nhuệ, sông Chanh... in dấu những bước chân trở về quê hương và ngưỡng vọng cội nguồn trong tâm thức người dân Việt. Qua sông, con người đến với núi Mẫu, đến với sự cứu rỗi và biết ơn.
Bên cạnh đó, hình tượng hang đá là nơi che chở cho những gì là biến ảo và bất trắc. Trong sự va chạm mãnh liệt của văn hóa bản địa với văn hóa phương Tây, đạo Mẫu với đạo Thiên Chúa, của cộng đồng và cá thể đầu thế kỷ XX, Nguyễn Xuân Khánh đã khéo đưa vào tiểu thuyết của mình những yếu tố nuôi dưỡng sức mạnh của con người bản địa. Đó không chỉ là tâm thức Mẫu hay tính nữ của văn hóa mà còn là bệ đỡ của chiều sâu tâm linh vô thức, như là sự chở che của người mẹ di dưỡng sức mạnh con người Cổ Đình. Hang đá là một thứ “biểu tượng gốc”, là “mẫu gốc của hình ảnh tử cung của người mẹ” - nơi ẩn náu để tái sinh. Sự miêu tả hang đá xoay quanh hai mối tình của Phác (Trịnh Huyền) với Ba Váy, Điều với Nhụ. Với Ba Váy, hang đá trên hẻm núi Mẫu chính là nơi diễn ra cuộc tình thần thánh (đêm thiêng của tục trải ổ), cũng là nơi gợi nhắc về những gì đẹp đẽ nhất của bà. Hang che dấu cho sự tái lặp cảm giác yêu đương mãnh liệt và thuần khiết với Trịnh Huyền (khi bà đã có chồng và sáu người con). Cái hang hình chữ chi đã giúp Cò Huy trở về với sự thực: Trịnh Huyền là cha của mình. Với Điều, hang là nơi mà chàng sẽ biết được bí mật lớn lao nhất của tạo hóa: Hái quả chín nơi Nhụ. Điều đặc biệt, ý nghĩa linh thiêng của hang còn là nơi “kho báu được cất giấu” lại hòa hợp với Ba Váy và Nhụ.
Tiểu thuyết Sông của Nguyễn Ngọc Tư ghi lại hành trình ngược dòng sông Di của một nhóm bạn trẻ. Sông Di (như một mạch nguồn sống động chảy dọc suốt thiên truyện), là kết quả của cảm thức sông nước được duy trì ẩn ngầm trong hàng loạt trang viết trước đó. Sông Di gợi cho người đọc rất nhiều dòng sông trong lịch sử văn học, thuộc nhiều tầng văn hóa khác nhau. Dòng sông hắt lên những cô độc, đứt gãy của đời người. Ý nghĩa biểu tượng này của sông Di gặp gỡ với quan niệm về sông triết học Hy Lạp cổ phương Tây. Với những chỗ nước sâu, nước cạn, những khúc ngoặt đổi dòng bất ngờ, dốc lên thác xuống hiểm trở, sông tượng trưng cho đời người với những chuỗi biến động, ước mơ. Dòng chảy của sông giống như dòng chảy của đời người, tuyến tính một chiều, vĩnh viễn không bao giờ chảy ngược lại. Sông Di là cái nôi sinh thành những vùng văn hóa mà Ân và những người bạn đồng hành đi qua, là bầu sữa mát lành tưới tắm, nuôi nấng nhiều thế hệ.
Sông Di hiện lên trong những trang viết đẫm chất thơ của Nguyễn Ngọc Tư là một dòng chảy hoang sơ, dịu dàng nhưng khi xuôi về đồng bằng, dòng sông oằn mình đau đớn vì những cuộc đổ bộ, lấn chiếm nghẹn thở của người dân hai bên bờ, đến nỗi lòng sông ở chỗ hẹp nhất rộng không quá bốn thước tây. Sự tàn nhẫn, vô tâm của con người đã khiến sông Di nổi giận, đe dọa sự sống của con người. Hình tượng thần sông mang quyền năng siêu nhiên và sức tàn phá mạnh mẽ kiến người đọc lần giở lại những kí ức của mình dòng sông Styx – con sông nổi tiếng đầu tiên trong thần thoại Hy Lạp. Chảy qua địa phủ chín lần, sông Styx là nơi dẫn linh hồn chết tới cánh cửa cung điện của thần Hades. Vì lý do đó, trong thần thoại Hy Lạp, mẫu gốc sông gắn liền với hình tượng vị thần hung dữ, có sức mạnh hủy diệt khủng khiếp. Trong tâm thức của người phương Đông, sông Nại Hà cũng là biểu tượng ngăn cách trần gian và âm phủ. Khi xuống địa phủ, người chết phải uống nước sông Nại Hà để xóa sạch mọi kí ức của kiếp trước, chính thức kết thúc vòng đời, một chu kì sống. Sông là một nhánh cổ mẫu quan trọng trong hệ hình cổ mẫu Nước của văn học Việt Nam. Con sông đầu tiên ngả bóng trong huyền thoại dân tộc Việt là sông Khàn – bến Khạn trong huyền tích Mường, làm nên cổ mẫu Sông trong nền văn học Việt Nam buổi sơ khai. Đó là biểu tượng của lằn ranh chia cắt hai thế giới, chia cắt Trời và Đất, Dương gian và Địa phủ. Hành trình du khảo sông Di cũng là hành trình của một chàng trai đồng tính và vị trí thực của mình trong đời sống. Sông là một tiểu thuyết hiện đại, nhưng ẩn sau nó là rất nhiều lớp trầm tích văn hóa nối dài qua nhiều thế hệ. Hình tượng sông không chỉ là một biểu tượng đơn thuần mà còn xâu chuỗi lớp lang mẫu gốc nguồn cội. Chính sự kết nối tương đồng văn hóa này đã nảy sinh nhiều ý nghĩa của văn bản. Tiểu thuyết không chỉ viết về những phận đời, phận người, về những vết thương nhức nhối hay khao khát thoát siêu nước hiện tại đầy rẫy đau khổ mà hơn thế, là tiếng nói nhân văn, khao khát cái Thiện, cái Đẹp của loài người muôn thuở.
Đọc tác phẩm đương đại từ mã văn hóa, độc giả bị cuốn vào trò chơi ngôn ngữ, buộc họ phải đi tìm sợi dây liên kết, kéo gần khoảng cách đối với tác phẩm ở các thời đại. Từ đó thấy được mạch ngầm ngôn ngữ trong từng trang tiểu thuyết. Đối thoại, va chạm văn hóa đã mở rộng đến vô tận ý nghĩa tác phẩm giống như giọt nước loang trên mặt hồ, mà các tầng ý nghĩa sẽ dần được bóc tách trong những lần kiến giải.
[1] M. Bakhtin (1992) (Phạm Vĩnh Cư dịch), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường Viết văn Nguyễn Du, H., tr 129.
[2] Thái Phan Vàng Anh (2019), “Khi lịch sử thuộc về cá nhân (Nhìn từ mối quan hệ giữa văn học và lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đầu thế kỉ XXI)”, In trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia Nghiên cứu và giảng dạy văn học về đề tài lịch sử dân tộc, Nxb Văn học, Hà Nội, tr. 80.
[3] Dorothy Brewster và John Burrell (2003), Tiểu thuyết hiện đại (Dương Thanh Bình dịch), Nxb Lao động, Hà Nội, tr. 62.
[4] M. Kundera (Nguyên Ngọc dịch) (2001), Tiểu luận, Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây và Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, H., tr. 81, 82.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: